"Ký ức đời lính không chỉ là những trang nhật ký của tuổi trẻ, mà còn là chứng nhân của lòng dũng cảm, tình đồng đội và những tháng ngày sống trọn với lý tưởng cao đẹp”. Quả đúng như vậy, từ cánh buồm ngoài khơi xa đến đỉnh núi mây phủ, con đường tôi đi như một sự sắp đặt của số phận. Biển cho tuổi thơ tôi bay bổng trên những ngọn sóng và cát vàng bên làng chài thơ mộng thì đời quân ngũ lại đưa tôi đến miền sơn cước nơi núi cao vời vợi quanh năm mây bao phủ, rừng xanh hoang dã lẫn tiếng suối róc rách chảy ngày đêm. Mọi thứ đều lạ lẫm nhưng cũng từ đó mà tôi có nhiều kỷ niệm khắc sâu trong hành trình của đời lính. Và có một kỷ niệm vẫn như ngọn lửa âm ỉ trong tim tôi càng qua năm tháng càng lắng đọng chẳng thể phai mờ:
Tháng 11 năm ấy... Tôi – một người lính trẻ của đơn vị 673, Lữ đoàn 384, Binh đoàn 12 – nhận lệnh hành quân lên miền núi Kỳ Sơn, Nghệ An để mở đường tuần tra biên giới. Rời xa miền biển quê nhà quen tiếng sóng rì rào, tôi bước vào một hành trình mới nơi núi rừng sương phủ và những thử thách còn ở phía trước.
Khi đó chỉ huy là đồng chí Trần Văn Năm – chỉ huy trưởng và đồng chí Trần Văn Thức - chỉ huy phó đơn vị, trực tiếp nhận nhiệm vụ chỉ huy làm đường tuần tra biên giới miền Tây Nghệ An. Lên bản Ta Đo đơn vị chưa có nhà , phải ở nhờ nhà dân bản, sau đó mấy anh em trong đơn vị phải đi chặt cây làm nhà, cắt lá cọ để lợp mái tính ra cũng phải mất 15 ngày mới xong nơi ăn chốn ở. Trở lại câu chuyện của tôi, hôm đó, xe đưa chúng tôi đến thị trấn Mường Xén rồi dừng lại. Con đường vào bản Ta Đo gập ghềnh, khúc khuỷu, nhiều đoạn chỉ là lối mòn nhỏ bám trên triền núi. Xe không thể vào được, sau khi bàn bạc, đồng chí Trần Thức chỉ huy quyết định cho anh em đi bộ hành quân vào đơn vị. Hơn bốn mươi cây số đường rừng, nghe thì đơn giản nhưng đi mới thấy không có gì là dễ dàng.
Chúng tôi xuất phát vào đầu giờ chiều, trời mùa đông nơi miền sơn cước khá âm u, mưa bụi lất phất càng tăng thêm cái lạnh. Ban đầu, anh em còn chuyện trò rôm rả, hát hò cho vui. Nhưng rồi mồ hôi lẫn mưa ngấm vào áo, đôi chân mỏi rã rời, ba lô trĩu nặng. Tiếng cười tắt dần, chỉ còn lại hơi thở gấp gáp và tiếng bước chân đạp lên con đường đất đá nghe lạo xạo. Sau hơn mười mấy cây số, trước mắt chúng tôi hiện ra những nương mía xanh rì, xen kẽ những luống sắn trải dài ngút mắt, bao quanh là những cây lau cao lút người tím thẫm. Cả đoàn ai nấy đều mệt nhoài, bụng đói cồn cào, cổ họng khát khô. Vậy mà giữa bạt ngàn ấy, chẳng thấy một bóng người để xin. Chúng tôi nhìn nhau, rồi đành bấm bụng bẻ vài cây sắn non, bứt vài khóm mía. Sắn thì đem nướng vội trong đống lửa nhỏ bên vệ đường, lớp vỏ cháy xém, khói cay xè mắt nhưng mùi thơm bùi cứ lan ra quyện vào không khí lành lạnh của núi rừng. Vừa nhai miếng sắn nướng nóng hổi, vừa ngấm vị ngọt mía tươi, cái đói như dịu lại, nhưng trong lòng ai nấy vẫn thầm tạ lỗi với chủ nương: “Xin bà con lượng thứ, lính trẻ đói quá, đành mượn tạm chút lộc của nương…”. Vị ngọt của mía, vị bùi thơm của sắn nướng lúc ấy không chỉ làm ấm bụng, mà còn trở thành một kỷ niệm khó quên.
Thế nhưng, niềm vui ấy chưa trọn thì hoàng hôn đã buông xuống. Bóng núi cheo leo đổ dài, mưa rừng lất phất, gió lạnh buốt như dao cắt. Chỉ còn tiếng suối chảy róc rách và tiếng vượn hú vẳng đâu đây. Giữa hoang vu mịt mờ, nỗi nhớ quê trào dâng trong tôi: nhớ sóng biển dạt dào, nhớ dáng mẹ lom khom bên bếp lửa, nhớ cả mùi muối mặn từ làng chài thân thương.
Đang đi, đồng chí Tình – một anh lính còn khá trẻ – chẳng may trượt chân, bị đá sắc cứa vào. Máu tuôn đỏ thẫm, vết thương dài khiến ai nấy hoảng hốt. Tình gương mặt hãy còn non nớt, thoáng chốc tái đi vì sợ hãi, ánh mắt lộ vẻ lo lắng, mồ hôi rịn trên trán, gương mặt nhăn nhúm vì đau như muốn gục ngã. Nhưng đội trưởng Trần Thức lập tức trấn an, để Tình ngồi xuống vừa băng bó vừa khẽ dặn: “Có đồng đội đây, đồng chí không sợ gì cả!”. Chính bàn tay vững vàng và giọng nói kiên định ấy đã giúp Tình lấy lại bình tĩnh. Anh cắn chặt răng, để mặc mồ hôi lăn dài trên trán, rồi cố gắng bước đi dưới sự dìu đỡ của đồng đội. Trong ánh đèn pin chập chờn, tôi thấy đôi mắt Tình ánh lên niềm biết ơn lặng lẽ. Khoảnh khắc ấy, tôi hiểu rằng nỗi sợ của tuổi trẻ sẽ tan biến khi bên cạnh ta có tình đồng chí soi đường, khi có bàn tay chỉ huy nâng đỡ. Chặng đường còn xa, chúng tôi thay nhau dìu Tình, vừa đi vừa thầm cầu mong sẽ tìm được nơi nghỉ chân.
Bỗng từ xa le lói một ánh sáng nhỏ, lúc đầu mơ hồ như đom đóm, rồi dần sáng rõ. Cả đoàn hối hả bước nhanh hơn, lòng trào dâng hi vọng. Ánh sáng ấy dẫn lối chúng tôi, thấp thoáng chúng tôi thấy một người đàn ông dáng cao gầy, chừng sáu mươi tuổi cầm chiếc đèn nhỏ, ánh mắt hiền lành, giọng nói trầm ấm. Biết chúng tôi là bộ đội, ông vui vẻ mời cả đoàn về một ngôi nhà sàn dựng ven bản. Ngôi nhà sàn của người Thái không rộng rãi, không cầu kỳ, nhưng gọn gàng và ấm cúng. Vách nứa, mái lá, sàn tre thoang thoảng mùi khói bếp. Bước lên nhà, tôi thấy lòng chộn rộn: tấm sàn bằng những thanh tre, nứa đan thưa, chân tôi đặt xuống nghe kẽo kẹt, cứ sợ mình tọt xuống dưới hoặc lỡ mạnh chân nó có sụp xuống không? Rồi chúng tôi quây quần bên bếp lửa, nghe củi cháy lách tách, hít hà mùi cơm nếp dậy thơm – một mùi thơm lạ lẫm mà từ bé đến giờ tôi chưa từng biết. Cơm nếp rừng dẻo, hạt trong, thơm nồng, quyện khói, ăn vào ngọt lịm rất khác với vị nếp quê nhà tôi. Vị ngon ấy, đến tận bây giờ vẫn còn nguyên trong ký ức tôi như một dư vị không thể nào quên.
Đêm về khuya vì công việc của đơn vị nên chúng tôi không thể ở lại lâu, tạm biệt gia đình người Thái hiền hậu. Chúng tôi lại khoác ba lô, tiếp tục cuộc hành trình. Ông còn dúi vào tay chúng tôi mấy gói xôi nếp thơm, vài củ sắn luộc còn nóng, dặn dò đi đường giữ sức. Lòng ai nấy bồi hồi, vừa biết ơn vừa lưu luyến. Đường vẫn còn xa, núi rừng vẫn hiểm trở, nhưng bước chân đã vững vàng hơn, bởi trong hành trang không chỉ có kỷ niệm ngọt bùi của mía sắn, mùi cơm nếp lạ lẫm, mà còn có cả sự dìu dắt của đồng đội, tình quân dân nơi bản xa, và những kỹ năng quý giá đã được rèn luyện. Tất cả trở thành ngọn lửa soi sáng, giúp tôi trưởng thành hơn trên con đường binh nghiệp.
“Kỷ niệm là thứ hành trang không ai có thể đánh mất, vì nó sống mãi trong tâm hồn con người.” Với tôi, chuyến hành quân năm ấy chính là một hành trang như thế –