Chúng tôi đến cầu Gianh lại nhớ một thời “xe chưa qua nhà không tiếc”. Vị trí Phà Gianh, nay đã có cây cầu sừng sững nối tuyến giao thông huyết mạch quan trọng Bắc Nam.
Bên cầu Gianh, tôi nhìn lên Bia dẫn tích chiến thắng sông Gianh, như vọng lên lời nhắc nhở, minh chứng hùng hồn của lịch sử chiến tranh cách mạng về những câu chuyện đời người nơi mảnh đất này. Và tôi hay ai đó khi qua cầu Gianh đều mủi lòng ghi nhớ công lao các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trên mảnh đất này.
Tôi gặp ông Trần Đình Lập, nguyên Xã đội trưởng dân quân, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Quảng Thuận, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình (cũ), khi ông đang nói chuyện truyền thống với một top dân quân tự vệ, có lúc tôi thấy ông rớm nước mắt, lúc thì giọng ông vang lên: “Nó đánh chỗ nào là hàng trăm anh em dân quân du kích lại ra đó để hàn gắn những chỗ hổng đó để cho xe qua được phà. Đồng thời phát động toàn dân dỡ nhà ra làm hầm cho bộ đội trú ẩn. Điển hình hồi đó có bà Trần Thị Toàn, bà ấy xung phong đầu tiên, từ gia đình bà Toàn đã lan tỏa toàn dân Quảng Thuận dấy lên phong trào hiến vật tư, nhà cửa cho cuộc kháng chiến với tinh thần “Xe chưa qua nhà không tiếc”, nhờ đó phà Gianh luôn thông suốt”.
Còn ông Trần Tiến Vinh, nguyên là dân quân xã Quảng Thuận, Quảng Trạch, Quảng Bình (cũ), người cùng xã với ông Lập, cho biết, hồi đó ông còn là một thiếu niên, nhưng vẫn còn nhớ như in ký ức thời mà cả quê hương ông, mọi người mọi nhà đều có chung một ý chí và quyết tâm lớn lao là phải thắng giặc Mỹ xâm lược, nên khi người lớn ra trận, trẻ em, phụ nữ ở nhà vẫn sẵn sàng cầm súng chống chọi với máy bay Mỹ; hoặc làm việc gì đó góp sức cho các chuyến xe an toàn chở hàng tiếp viện vào chiến trường miền Nam với tinh thần “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, trẻ con cũng phải đánh giặc giữ nước”.
Ông Trần Tiến Vinh hào hứng góp chuyện: “Trong lúc đàn anh đàn chị vào lực lượng chính quy hay còn gọi là dân quân 1, còn chúng tôi là dân quân dự bị; ngày thì chúng tôi ra đồng sản xuất, đi cấy, trước khi đi cấy phải đi vòng quanh ruộng đào một cái hầm tròn đã, rồi kể cả nam và nữ mỗi người đều có một khẩu súng trường, khi có máy bay địch đến là bà con thả mạ xuống và cầm súng bắn máy bay ngay. Có lúc dân quân họ đi vắng mà máy bay đến thì chúng tôi cứ cầm súng bắn, có lúc súng nó giật cho bổ ngã về sau vẫn kiên cường chiến đấu, phải nói tất cả thanh thiếu niên đều hăng hái như vậy. Chúng tôi ngày thì sản xuất, cấy cày, đêm về thì gúp bộ đội vận chuyển lương thực, đạn dược tập kết dọc bờ sông để các đoàn tàu thuyền từ các đơn vị về nhận hàng, khi có sự cố xảy ra thì tất cả bà con đều nhảy ra cứu tầu.”
Ông Trần Đình Lập xen vào và cho biết thêm: “Trong sản xuất thì không ngừng phát huy vừa phục vụ chiến đấu vừa phục vụ sản xuất. Tất cả mọi người dân đều sẵn sàng hy sinh cho kháng chiến chống Mỹ cứu nước; trong chiến đấu kiên cường như vậy nhưng ruộng vườn đều hoàn thành nhiệm vụ cấy cày, đảm bảo, nên thời đó xuất hiện câu ca “Quảng Thuận đất nước kiên cường/ Bom rơi đạn nổ ruộng vườn vẫn xanh”.
Bên cạnh đó, phong trào văn hóa xã hội ca kịch, hát múa cũng được duy trì trong khí thế “Tiếng hát át tiếng bom”, có nhiều khi còn biểu diễn văn nghệ cho anh em bộ đội xem, kịp thời động viên ba lực lượng sẵn sàng làm nhiệm vụ khi cần thiết.
Những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phà Gianh là một trong những trọng điểm đánh phá ác liệt nhất của Đế quốc Mỹ, hòng cắt đứt chi viện của hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền Nam. Nhưng chúng không lường hết được tinh thần và ý chí của toàn dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ, một lòng theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ kính yêu, quyết tâm bám quê hương phục vụ cuộc kháng chiến đi đến ngày toàn thắng.
Hôm nay phà Gianh đã có một cây cầu bề thế hoành tráng bắc qua con sông Gianh và Quảng Thuận đã vươn mình trong vóc dáng một đô thị. Cầu Gianh bây giờ như tô thêm nét thơ mộng cho một địa chỉ đó. Để có được cây cầu và phố thị sầm uất như hôm nay, trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, riêng xã Quảng Thuận đã hy sinh hơn 500 người, có hơn 2.500 người bị thương và toàn bộ nhà cửa ruộng vườn nơi đây bị san lấp do bom đạn, rốc két và pháo Mỹ từ Hạm đội 7 bắn vào. Chính vì lẽ đó, hôm nay ông Trần Đình Lập lại có mặt trước thế hệ dân quân trẻ của quê hương, để kể chuyện truyền thống, để truyền tiếp lòng biết ơn và ý chí quyết tâm của cha ông vào lớp trẻ viết tiếp những trang sử bảo vệ thành quả cách mạng và dựng xây quê hương.
Đến cầu Hiền Lương, vĩ tuyến 17 nổi tiếng một thời. Cầu vẫn sừng sững “trơ gan cùng tuế nguyệt” bắc qua sông Bến Hải, tại thôn Hiền Lương, xã Hiền Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị (cũ) với một nửa xanh, một nửa vàng. Thời kỳ đó, cầu Hiền Lương cũng chính là ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai miền theo vĩ tuyến 17, bờ Bắc do nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý, bờ Nam do phía Việt Nam Cộng hòa quản lý. Trong suốt gần 22 năm, từ năm 1954 đến năm 1976, nơi này đã từng diễn ra những cuộc “chọi loa”, “chọi cờ” quyết liệt trong cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Những cái tên sông Bến Hải, sông Thạch Hãn, rồi cồn Tiên, dốc Miếu gợi lại thời oanh liệt trong kháng chiến chống Mỹ. Từ bên này sông Bến Hải, tôi nhìn sang bên kia bao la ngút ngát cánh đồng không một bóng cây dưới cái nắng trưa gần 40 độ. Tôi hình dung thời ấy những người lính tuổi mười tám đôi mươi từ bờ Bắc bơi qua sông, trườn qua cánh đồng, dưới làn đạn địch khô khốc nhưng không ngăn nổi bước chân và ý chí các anh. Một câu chuyện đọng lại trong khí ức mà khi qua đây tôi lại nhớ và khi nhắc lại, nước mắt tự ứa ra. Đó là chuyện một người mẹ ở bờ Bắc, hằng đêm tiễn các chiến sĩ vượt sông, đến sáng mai không thấy các con về, mẹ lại phết lên bờ phên một vệt vôi, đến nỗi bờ phên đã kín hết vệt vôi mà các con, những chiến sĩ giải phóng quân vẫn không trở về.
Đến Thành cổ Quảng Trị, tôi gọi cho nhà thơ Lê Bá Dương, người từng có những câu thơ nằm lòng trong hàng vạn du khách khi đến thăm địa chỉ đỏ này. Anh bảo, đang về quê ở thị xã Thái Hòa cũ, tỉnh Nghệ An. Nhà thơ, cựu chiến binh (CCB) Lê Bá Dương quê Nghệ nhưng lại định cư tại Nha Trang, nguyên là sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Thành cổ Quảng Trị. Anh chuyển cho tôi mấy câu thơ, nói đây là bản chính anh viết ra. Nhiều người đọc thơ anh nhưng có người đọc chệch đi do không nhớ chính xác. Anh bảo, con đẻ của anh là đây:
“Đò lên Thạch Hãn ơi… chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm”.
Anh nói, mỗi độ tháng Bảy, anh đều về tri ân đồng đội Thành cổ Quảng Trị, thả hoa đăng sông Thạch Hãn, quỳ bên sông khóc mãi.
Thành cổ Quảng Trị, di tích lịch sử quan trọng, nổi bật với trận chiến 81 ngày đêm khốc liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sử sách vẫn còn ghi, riêng ở khu vực thị xã Quảng Trị cũ, tổng số bom đạn mà Mỹ sử dụng trong 81 ngày đêm bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Nhật Bản. Có ngày số bom Mỹ ném ở Quảng Trị vượt xa số bom Mỹ ném trên toàn miền Nam trong các năm 1968 đến năm 1969. Cuộc giằng co giữa ta và địch 81 ngày đêm là biểu tượng của lòng dũng cảm, ý chí kiên cường và sự hy sinh của quân và dân ta.
Đến Quảng Trị gợi lên trong mỗi thành viên chúng tôi cảm xúc tự hào, vinh dự. Nhất là khi cả dân tộc đang rạo rực hướng tới kỉ niệm 80 năm ngày thành lập nước. Những ngày này, tại Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn, trên khu đồi Bến Tắt, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh cũ, có hàng ngàn người dân tề tựu đến dâng hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ.
Tại trung tâm thị xã Đông Hà cũ, tôi rẽ vào một ngã tư, nơi có bản chỉ dẫn rẽ sang Đường 9. Từ thành phố Đông Hà (cũ) của tỉnh Quảng Trị đến cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo chưa đầy 80 cây số nhưng ngồn ngộn những địa danh một thời oanh liệt, như Khe Sanh, Tà Cơn, Làng Vây, rồi qua bên kia biên giới Việt – Lào là những cái tên bản nao lòng như bản Đôn. Ta còn nhớ bài hát một thời “Từ Đông Hà qua bản Đôn”, rồi Sê Pôn, Mường Phìn, Mường Nọng, Sa-văn-na-khệt…
Hôm nay, hai bên đường 9 đã là những ngôi làng trù phú, con đường rải thảm ngút ngát và những cánh rừng dưới cỏ là dấu tích một thời cực kỳ oanh liệt.
Riêng trận Khe Sanh, các tài liệu của đối phương thừa nhận rằng trận đánh diễn ra trong 77 ngày từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1968, đã đánh dấu sự cáo chung của Hàng rào điện tử Mắc-na-ma-ra và Khe Sanh đã trở thành nơi mà lần đầu tiên quân đội Hoa Kỳ phải trút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu. Vì vậy, chiến thắng đường 9 Khe Sanh được người Mỹ cho là “Trận Điện Biên Phủ thứ 2” đã làm thay đổi cục diện chiến tranh Việt Nam của Đế quốc Mỹ.
Ông Nguyễn Viết Minh, Phó Ban quản lý Khu Di tích Đường 9, Sân bay Tà Cơn, Khe Sanh cho biết: nơi đây đã tập kết nhiều hiện vật hình khối lớn mang ý nghĩa chứng tích chiến tranh, mà cho đến bây giờ các cựu binh Mỹ, các nhà khoa học vẫn chưa thể giải mã hết câu hỏi vì sao người Mỹ lại thất bại ở nơi này. Được sự quan tâm của cấp trên, và nỗ lực của đơn vị chúng tôi, dần dần các hiện vật hình khối lớn như là máy bay, xe tăng đã được đưa về tập kết tại nơi này. Chúng tôi đã đón khá nhiều đối tượng khách nước ngoài, trong đó khách châu Âu và khách Mỹ chiếm đa số, và đặc biệt CCB Mỹ họ cũng mong muốn quay lại chiến trường xưa.
Từ Cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị), qua phía Lào được gọi là Cửa khẩu Đen-sa-vẳn (Densavanh). Qua biên giới ta sẽ gặp lại những địa danh quen thuộc như bản Đông, Sê Pôn, Mường Phìn, Mường Nọng, rồi điểm cuối của con đường là thị xã Cay-sỏn Phôm-vi-hản (Caysone Phomvihane), Thủ phủ tỉnh Sa-vẳn-na-khệt (Savannakhet), dài 180 cây số. Tuyến đường sử sách Lào gọi là nhánh chính và rất quan trọng của đường mòn Hồ Chí Minh ở Tây Trường Sơn (trên đất Lào). Trong Báo cáo của Ban Tuyên huấn Đảng Nhân dân Cách mạng Lào thì thời kỳ đó, Sê Pôn, bản Đông, Mường Phìn, Mường Nọng là chiến trường ác liệt nhất trên đất Lào. Tài liệu mà Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào công bố vào năm 2014 cho rằng, đường Hồ Chí Minh trên đất Lào nối với đường 9, có hơn 20 nhánh, gồm cả đường bộ, đường thủy và đường giao liên, dài hơn 20.000km, qua 7 tỉnh của Lào. Trong suốt quãng thời gian 16 năm (từ 1959 đến 1975). Đường Hồ Chí Minh trên đất Lào đã phục vụ vận chuyển gần 1,2 triệu tấn lương thực và vũ khí đạn dược, phục vụ chiến trường ba nước Đông Dương; đã hứng chịu hơn 11.000 trận đánh phá của địch với hơn 3 triệu tấn bom mìn dội xuống, làm 19.800 người chết, 40.000 người bị thương; phá hủy hơn 90.000 héc ta ruộng nương, vườn tược của người dân. Quân và dân Lào đã phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam bắn rơi 2.455 máy bay các loại; đánh lui gần 1.300 trận tấn công của địch. Tôi nhớ hôm gặp Ông Bun-tả Nit-tha (Bountanitha), Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh Sa-vẳn-na-khệt, ông nhấn mạnh: Đường 9 luôn là đỉnh cao của biểu tượng về ý chí kiên cường, bất khuất và tình đoàn kết đặc biệt của quân và dân hai nước Việt – Lào. Ông nói: “Những hình ảnh anh lính tình nguyện Việt Nam vẫn còn in đậm trong trái tim nhân dân Lào chúng tôi. Các anh đã đi qua đường Hồ Chí Minh trên đất Lào để vào giải phóng miền Nam Việt Nam. Đó là con đường huyết mạch qua dãy Trường Sơn của Lào và Việt Nam vì sự nghiệp giải phóng đất nước của Lào cũng như giải phóng miền Nam Việt Nam”.
Hôm tôi ghé Mường Phìn, ông Khăm-mạt Na-vông-pha-chẳn (Khammath Navongphachanh), Bí thư kiêm chủ tịch huyện Mường Phìn, tỉnh Sa-vẳn-na-khệt cũng chia sẻ, huyện của ông nằm trên tuyến đường 9, vì vậy ông đang đề xuất Trung ương Lào cho xây dựng một cột mốc về dấu tích đường Hồ Chí Minh ở Tây Trường Sơn tại Mường Phìn.
Còn ông Vi-lay-văn Phôm-khê (Vilayvanh Phomkhe), nguyên Tỉnh trưởng tỉnh sa-vẳn-na-khệt (Savanakhet), một nhân chứng thời chiến, kể: theo ông, Đường Hồ Chí Minh trên đất Lào có hơn 20 nhánh và được gọi với nhiều cái tên khác nhau, nhưng tựu trung vẫn là đường Hồ Chí Minh. Ông giải thích: “Đường Hồ Chí Minh là con đường thiên biến vạn hóa, không dưới 20 nhánh, trong đó gồm đường cho ô tô, đường giao liên, đường đi bộ gùi hàng, đường cho xe đạp thồ, rồi đường liên bản. Ngoài ra còn có các con sông Sê Pôn, Sê-băng-hiêng, Sê-băng-phay, là giao thông thủy, dù hình thức nào thì các tuyến giao thông ấy đều là đường Hồ Chí Minh ở Tây Trường Sơn”.
Ông Khăm-mạt Nạ-vông-pha-chẳn (Khammat Navongphachanh), Bí thư kiêm Chủ tịch huyện Mường Phìn (Muangphine) cho biết, huyện ông được Nhà nước CHDCND Lào tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang Lào; huyện ông cũng là huyện nằm trên trục đường 9, mà hồi đó ông là chiến sĩ giao liên. “Tôi đã tham gia dân công, giao liên, dẫn đường cho bộ đội Việt Nam và Lào qua vùng ác liệt nhất. Mặc dù trên bộ, trên không đều bị địch oanh kích, nhưng người dân Mường Phìn chúng tôi vẫn hăng hái dẫn đường cho bộ đội, đưa bộ đội vào chiến trường an toàn nhất, góp phần làm giảm tối đa những tổn thất cho lực lượng của ta. Người dân ở đây rất đoàn kết, một lòng theo Đảng nên đã đưa được nhiều bộ đội vào sâu tận huyện Tu-lạn (Tulane), tỉnh Sa-la-văn (Salavan). Đây cũng là điểm nối với đường 9 xuống tận huyện Mường Tu-lạn, huyện Mường Sa-muội của tỉnh Sa-la văn”, ông kể một cách say sưa.
Dâng hương các anh hùng liệt sĩ Thành cổ, tôi nhớ lần gặp Đại tá Nguyễn Hữu Xuân (hiện trú ở xóm 3, xã Đại Huệ, tỉnh Nghệ An), ông nhớ nhất là những năm tháng vào sinh ra tử ở chiến trường Quảng Trị. Ông kể, tháng 11/1968, ông vào chiến trường B5 (Quảng Trị) trưởng thành từ một chiến sĩ lên Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng trinh sát rồi cán bộ đại đội, cán bộ tiểu đoàn thuộc Đoàn 15 mặt trận B5 (sau là D15). Lúc ở trinh sát ông có trọng trách trực tiếp luồn sâu bám địch để bảo đảm cho các đơn vị đặc công và bộ binh của ta thực hiện hàng chục trận tập kích, phục kích đánh tiêu hao, tiêu diệt lực lượng Lữ 1, Sư đoàn 5 bộ binh cơ giới Mỹ từ căn cứ cồn Tiên và miếu Bái Sơn thường xuyên ra càn quét, ngăn chặn ta trên dãy Hồ Khê, Đá Bạc, Cù Đinh, Ba De, cao điểm 122, đồi Tròn ở Cam Lộ… ông đã cùng tập thể Ban chỉ huy tiểu đoàn 2 phòng ngự, liên tục tấn công, tập kích vào đội hình lữ 147 Thủy quân lục chiến Ngụy để phá thế tấn công tái chiếm thành cổ Quảng Trị của địch trên hướng phía tây Tích Tường, Như Lệ, động Ông Gio… Ông bảo, “số mình là trời cho sống, chứ liên tục bám mặt trận Trị Thiên đến 7 năm, biết bao đồng đội đã ngã xuống, nằm lại trên chiến trường mãi mãi không về…”
Chúng tôi cũng đã vào dâng hương tưởng nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập nước. Tại đây, mỗi ngày có hàng trăm đoàn khách từ mọi miền đất nước đến dâng hương hoa bày tỏ lòng biết ơn, tri ân các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh vì nền độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân và ghi nhớ công lao to lớn của vị Đại tướng kính yêu. Tên tuổi của Đại tướng đã gắn liền với những mốc son chói lọi của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh; hình ảnh của Đại tướng đã khắc sâu trong lòng nhân dân ta và trong sự ngưỡng mộ của bạn bè quốc tế.
Trong những ngày vọng vang dư âm lịch sử Cách mạng Tháng Tám, chuyến đi thực tế của Ban Sân khấu chúng tôi như là một hành trình tìm về nguồn cội, nhắc nhớ tiền nhân. Những rung cảm từ chuyến đi hẳn sẽ chuyển vào những trang viết của văn nghệ sĩ để sáng tạo nên những tác phẩm giá trị. Đó có lẽ cũng là trách nhiệm, là sự tri ân mà mỗi một chúng tôi đã thì thầm trao gửi mỗi khi đứng trước từng di tích lịch sử thiêng liêng ấy
Lang Quốc Khánh (Theo tapchisonglam.vn)
Ý kiến bạn đọc